This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Saturday, November 26, 2011

Vì sao Obama làm mất lòng người Do Thái?

Các khóa học chất lượng, những bí quyết thành công...

Từ khi nhậm chức Tổng thống Obama vấp phải không ít khó khăn trong việc lấy lòng người Do Thái. Nhiều nỗ lực cải thiện quan hệ với Israel của ông chỉ khiến cho tình hình thêm phức tạp.

Do lá phiếu của các cử tri Do Thái tại Mỹ rất "nặng" nên việc ông Obama xử lý quan hệ với cộng đồng này
và Israel thế nào góp phần quyết định ông có tái nhiệm hay không.

Tháng 5/2011, Bộ Ngoại giao Mỹ ra thông báo rằng Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ James Steinberg đến thăm Israel, Jesusalem và Bờ Tây. Việc tách riêng ba địa điểm ông James đến thăm đồng nghĩa với việc Mỹ ám chỉ Jerusalem không phải là một phần của Israel.
Tháng 3/2011, ông Obama lại kêu gọi Israel “tự phê bình”, mời các nhà lãnh đạo cộng đồng Do Thái tới Nhà Trắng và hướng dẫn họ "tìm kiếm" sự cống hiến của Israel cho hòa bình thế giới.

Tháng 4/2010, Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu quyết định không tới khỏi hội nghị thượng đỉnh về vấn đề hạt nhân Washington. Ông e ngại sẽ bị chỉ trích về chính sách hạt nhân của nước mình sau khi biết có một số nước như Thổ Nhĩ Kì, Ai Cập và Hy Lạp cũng sẽ tham dự.
Khi đó, cuộc tranh cãi giữa Mỹ và Israel về việc xây dựng thêm các khu định cư ở Đông Jerusalem khiến một số nhà phân tích băn khoăn rằng, phải chăng Mỹ đang tìm kiếm sự "thay đổi chế độ" với hy vọng, một Chính phủ mới tại Israel có thể kiến tạo hòa bình với người Palestine.


Mười ngày sau đó, ông Benjamin Netanyahu đến Washington với tuyên bố rằng Israel sẽ không từ bỏ kế hoạch xây dựng 1.600 căn hộ mới cho người Do thái. Động thái này như "gáo nước lạnh" dội vào những hy vọng từ phía Mỹ. 


Gần như cùng thời điểm, cố vấn của Tổng thống Obama là ông Axelrod chỉ trích Israel, cáo buộc kế hoạch mở rộng khu định cư Do thái là sự "xúc phạm" và "sỉ nhục" Mỹ. Đồng thời, thư ký báo chí Robert Gibbs chỉ trích trên kênh Fox News, buộc tội ông Netanyahu "phá vỡ lòng tin" giữa hai nước.


Cùng thời điểm, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton chỉ trích Thủ tướng Benjamin Netanyahu trong một cuộc điện đàm nổi tiếng 45 phút, rằng Israel đã "làm tổn hại đến mối quan hệ song phương”.


Tháng 3/2010, khi Phó Tổng thống Joe Biden thăm Israel, nước này công bố kế hoạch mở rộng khu định cư tại Jerusalem - hành động bị coi là "vuốt mặt mà không nể mũi". Sau đó, Tổng thống Obama phát động cuộc "tấn công" kéo dài hàng tuần chưa từng có chống lại Israel và ông Biden lập tức rời Israel.


Tháng 9/2009, trong bài phát biểu đầu tiên của mình tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Obama dành 5 lần đề cập đến cuộc xung đột Israel - Palestine mà trong đó, ông tuyên bố rằng: "Mỹ không chấp nhận các khu định cư bất hợp pháp tiếp tục được xây dựng Jerusalem”. Đồng thời, ông cũng chỉ trích các cuộc tấn công bằng rocket vào thường dân Israel .


Cũng tại cuộc gặp đó, ông Obama tuyên bố với phía Israel rằng họ cần "tự phê bình một cách nghiêm túc”. Tuyên bố này khiến cho nhiều người choáng váng.


Tháng 7/2009, Tổng thống Obama đón tiếp các nhà lãnh đạo Do Thái tại Nhà Trắng. Khi đó, ông tìm cách "công khai" quan hệ Mỹ và Israel bởi theo ông, trong 8 năm dưới chính quyền Bush, "không có sự công khai giữa Mỹ và Israel; và quan hệ này chẳng có gì tốt đẹp.


Đây được coi là tín hiệu xấu gửi tới Tổng thống Obama khi ông vừa khởi động chiến dịch tái tranh cử.

Tổng thống Obama (phải) trong cuộc gặp với Thủ tướng Benjamin Netanyahu tại Nhà Trắng. 
      
"Điểm danh" những lần ông Obama "chọc giận" người Israel:

Thậm chí, thành viên đảng Dân chủ và cũng là cựu thị trưởng New York ông Ed Koch còn ủng hộ ứng viên Turner vì muốn gửi thông điệp phản đối tới Tổng thống Obama về chính sách với Israel.


Trong cuộc thăm dò dư luận trước ngày cuộc bầu cử, đa số cử tri cho rằng vấn đề  Israel "cực kỳ quan trọng" trong việc quyết định lá phiếu của họ. Kết quả thăm dò cho thấy ứng viên đảng Cộng hòa Robert Turner chiến thắng với tỷ lệ 71/22. Chỉ có 22% cử tri Do Thái ủng hộ chính sách của Tổng thống Obama với Israel.


Vừa qua, lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, kết quả bầu cử tại New York bị ảnh hưởng bởi chính sách với Israel của Tổng thống Obama. Đảng Dân chủ phải nỗ lực hết sức để giành phiếu bầu nhưng đảng Cộng Hòa vẫn chiến thắng tại New York, nơi vốn là "địa bàn" của phe Dân chủ.

                                                                                                                  http://baodatviet.vn/

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế?

Karl Marx, Alan Greenspan, Paul Krugman, George Soros, Michael Bloomberg... đều là những người gốc Do Thái rất thành công trên mặt trận làm kinh tế.
Cựu Chủ tịch FED Alan Greenspan là người Do Thái.
Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế
Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại.
Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên…
Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:
Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:
- Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
- Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;
- Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển;
- 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008)… là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng...
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người :
- Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905.
Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy.
- Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân lên tới 26,5 tỷ USD.
- George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn.
- Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế, đang được mong đợi sẽ là ứng cử viên Tổng thống Mỹ khóa tới...
Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của nước này. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”.
Nguyên nhân do đâu?
Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.
Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này, không thể không nhắc đến các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua.
Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi.
Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề.
Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia.
Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn.
Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại - về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào.
Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền - họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?).
Theo Nguyễn Hải HoànhCafeF/Dongtac
 Các bạn có thể nêu suy nghĩ của mình để cùng thảo luận:


Sách - Chiến tranh tiền tệ - Phần 1

Phần 1: Gia tộc Rothchild - cường quyền duy nhất ở Châu Âu
Cho đến nay, Bill Gates vẫn được giới truyền thông không ngừng ca tụng và được coi là người đàn ông giàu nhất hành tinh với khối tài sản khổng lồ. Nếu tin rằng đó là sự thật thì có nghĩa là bạn đã bị lừa dối. Bởi vì bạn sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được bóng dáng của các ông trùm thật sự giàu có trên bảng xếp hạng những người giàu nhất hành tinh này, còn giới truyền thông phương Tây thì đã bị những thế lực “vô hình” của các ông trùm kia khóa miệng
CUỘC CHIẾN TRĂM NĂM GIỮA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ VÀ TỔNG THỐNG HOA KỲ  
Tôi có hai kẻ thù chính: quân đội miền nam trước mặt tôi và cơ cấu tiền tệ sau lưng tôi. Trong hai thế lực này, sự uy hiếp của kẻ đứng sau lưng mới là lớn nhất. Tôi nhìn thấy một nguy cơ trong tương lai đang đến gần chúng ta, khiến chúng ta lo sợ cho sự an nguy của đất nước. Sức mạnh của đồng tiền sẽ tiếp tục thống trị và làm tổn thương đến người dân, và đến khi những đồng tiền cuối cùng tích tụ lại trong tay một số kẻ thì đất nước của chúng ta sẽ bị phá hủy. Hiện giờ tôi lo lắng cho tương lai của đất nước hơn bất cứ lúc nào, thậm chí còn hơn cả trong tình huống chiến tranh. [1] 
                                                                          Lincoln, Tổng thống thứ 16 của Mỹ 
Nếu nói lịch sử Trung Quốc được xoay quanh bởi những cuộc đấu tranh quyền lực chính trị, và nếu không hiểu được những tính toán trong lòng các bậc đế vương thì chúng ta không thể hiểu thấu được cái tinh thần cốt lõi của lịch sử Trung Quốc. Như vậy, lịch sử phương Tây phát tiển từng bước theo sự tiến hóa của đồng tiền, nếu không hiểu được cơ mưu của đồng tiền thì không thể nắm được nguồn mạch của lịch sử phương Tây.
Quá trình lịch sử trưởng thành của nước Mỹ đầy rẫy những sự can thiệp và âm mưu của các thế lực quốc tế, trong đó, điều khiến người ta sợ nhất chính là sự thâm nhập và âm mưu lật đổ của các thế lực tài chính quốc tế đối với nước Mỹ, nhưng đây cũng là điều chẳng mấy ai biết.
Việc thiết kế và xây dựng chế độ dân chủ hầu như là hành động ngăn cản sự uy hiếp của các thế lực phong kiến chuyên chế, và đã thu được hiệu quả khả quan ở phương diện này, nhưng bản thân chế độ dân chủ lại không có được sức miễn dịch đáng tin cậy đối với những mầm bệnh chết người mới được sinh ra từ quyền lực của đồng tiền.
Khả năng phán đoán và phòng ngự của chế độ dân chủ mới đối với hướng tấn công chính của chiến lược thông qua việc khống chế quyền phát hành tiền tệ của ngân hàng quốc tế nhằm khống chế toàn bộ quốc gia đã xuất hiện những lỗ hổng lớn. “Tập đoàn lợi nhuận đặc thù siêu tiền tệ” và chính phủ do dân Mỹ chọn ra trong thời gian hơn một trăm năm trước cũng như sau cuộc nội chiến bắc nam đã tiến hành những cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm xây dựng một định chế tài chính của hệ thống ngân hàng trung ương tư hữu Mỹ. Tổng cộng đã có tất cả 7 tổng thống Mỹ, nhiều ủy viên quốc hội khác đã bỏ mạng vì cuộc chiến giữa hai thế lực này. Các nhà sử học Mỹ đã chỉ ra rằng, tỉ lệ thương vong của các tổng thống Mỹ so với thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai còn cao hơn nhiều so với tỉ lệ thương vong bình quân của một đoàn thủy quân lục chiến!
Cùng với việc mở cửa toàn diện nền tài chính của Trung Quốc, các ngân hàng quốc tế sẽ thâm nhập sâu vào hệ thống tài chính của Trung Quốc, và câu chuyện đã xảy ra cho nước Mỹ hôm qua, liệu sẽ tiếp tục tái diễn ở Trung Quốc hôm nay?
VỤ ÁM SÁT TỔNG THỐNG LINCOHN 
Tối thứ sáu ngày 14 tháng 4 năm 1865, Tổng thống Lincoln đã vượt qua được cuộc nội chiến kéo dài bốn năm đầy tang tóc trong muôn vàn nguy cơ và gian khổ. Cuối cùng, năm ngày trước khi nhận được tin thắng lợi – tướng Robert Lee thống lĩnh quân đội miền nam đã đầu hàng tướng Grant của quân miền bắc – vị tổng thống đã cảm thấy đỡ căng thẳng hơn. Và trong lúc hứng chí, ông đã đến nhà hát Ford ở Washington để xem buổi biểu diễn. Vào lúc 10 giờ 15 phút, lợi dụng lúc không có cận vệ bên cạnh, một kẻ sát thủ đã lẻn tới cạnh Tổng thống, dùng một khẩu súng cỡ lớn nhằm thẳng vào đầu ông mà bóp cò, Lincoln bị trúng đạn đổ vật về phía trước. Sáng sớm hôm sau, Tổng thống qua đời.
Hung thủ là một diễn viên có chút tiếng tăm khi đó có tên là John Wilkes Booth. Sau khi ám sát xong Lincoln thì tay này hoảng sợ bỏ trốn, ngày 26 tháng 4 hung thủ bị bắn chết trên đường bỏ trốn. Trong xe ngựa của hung thủ, người ta đã phát hiện thấy rất nhiều thư từ viết bằng mật mã và một số vận dụng cá nhân của Juda Benjamin – Bộ trưởng Bộ chiến tranh của Chính phủ miền nam và sau này là Bộ trưởng ngoại giao, một người có thực quyền về mặt tài chính ở miền nam đồng thời có mối quan hệ rất thân mật với các đại gia ngân hàng ở châu Âu. Sau đó người này đã đào tẩu sang Anh. Sự kiện Lincoln bị ám sát về sau đã được lan truyền rộng ra và nhiều người cho rằng đây là một âm mưu có quy mô lớn. Những nguời tham gia trong âm mưu này có thể là các thành viên nội các của Lincoln, các ngân hàng ở New York và Philadenphia, quan chức cao cấp của Chính phủ miền nam, giới quyền lực trong ngành xuất bản báo chí và các phần tử nổi loạn ở miền bắc.
Thời đó có một giả thuyết lan truyền rộng rãi rằng, Booth không hề bị giết chết, mà là được phóng thích, còn thi thể được mai táng sau này là người đồng mưu của anh ta. Edwin Stanton – Bộ trưởng chiến tranh nắm giữ trọng quyền khi đó đã che dấu chân tướng sự việc. Thoạt nghe thì đây có vẻ là một giả thuyết hoang đường. Thế nhưng, sau khi một loạt các văn kiện bí mật của Bộ trưởng chiến tranh được giải mã vào những năm 30 của thế kỷ 20 thì các nhà sử học đã phát hiện ra một sự thật đầy kinh ngạc về cái chết của Tổng thống Lincoln, trên thực tế chẳng khác gì lời đồn thổi của thiên hạ.
Otto Eisenschiml, nhà sử học đầu tiên chuyên nghiên cứu về đề tài này đã gây chấn động cho các đồng nghiệp trên thế giới bằng những phát hiện đầy bất ngờ trong bài viết “Tại sao Lincoln bị ám sát?”. Sau đó, Theodore Roscoe đã cho công bố kết quả nghiên cứu có sức ảnh hưởng rộng rãi hơn nữa bằng cách chỉ ra rằng:
Phần lớn các nghiên cứu lịch sử của thế kỷ 19 liên quan đến việc tổng thống Lincoln bị ám sát đều miêu tả sự việc giống như một vở bi kịch điển hình của nhà hát Ford vậy … Chỉ có một số ít nhìn nhận sự việc như là một cuộc mưu sát: Lincoln chết trong tay một tên tội phạm thô bỉ … tội phạm phải bị trừng phạt theo pháp luật; thuyết âm mưu đã bị bóp chết; cuối cùng Đức và Mỹ đã giành được thắng lợi, Lincoln cũng đã thuộc về “quá khứ”.
Thế nhưng, việc giải thích sự kiện ám sát tổng thống vừa không khiến cho người ta hài lòng vừa khó khiến cho người ta khâm phục. Thực tế cho thấy, tên tội phạm liên quan đến cái chết của Lincoln vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. [2]
Trong bài viết “Hành động ngu xuẩn” thuộc cuốn hồi ký của mình, Izola Forrester, cháu gái của tên hung thủ, đã nói rằng, bà phát hiện thấy ghi chép bí mật “Kỵ sĩ rạp xiếc” (Knights of the Golden Circle) đã bị Chính phủ cố ý cất vào trong kho văn kiện, đồng thời bị Edwin Stanton xếp vào loại tài liệu tuyệt mật. Sau khi Lincoln bị ám sát, bất cứ ai cũng không được tiếp cận với những tài liệu này. Do mối quan hệ huyết thống giữa Izola và Booth, hơn nữa, với tư cách là một nhà văn chuyên nghiệp, cuối cùng bà đã trở thành là người đầu tiên được phép đọc những tài liệu này. Trong cuốn sách của mình, bà đã viết rằng:
Những bao tài liệu cũ kỹ thần bí này được cất giữ trong một két bảo hiểm nằm trong góc khuất giữa nơi đặt di tích của “âm mưu thẩm phán” và căn phòng trưng bày. Nếu không phải là năm năm trước, khi đọc những tư liệu (ở căn phòng đó) mà tôi đã tình cờ nhìn thấy cạnh chiếc tủ, thì có thể chẳng bao giờ tôi biết chúng (tài liệu bí mật) tồn tại.
Những tài liệu ở đây có liên quan đến ông nội tôi. Tôi biết ông từng là thành viên của một tổ chức bí mật. Tổ chức này chính là “Kỵ sĩ rạp xiếc” do Bickley sáng tập nên. Tôi có giữ một tấm ảnh của ông – bức ảnh ông chụp chung với họ, tất cả họ đều ăn mặc chỉnh tề. Bức ảnh này được phát hiện trong quyển “kinh thánh” của bà nội tôi …tôi còn nhớ bà từng nói rằng chồng bà (Booth) là “công cụ của người khác.[3]
“Kỵ sĩ rạp xiếc” và các thế lực tài chính New York rốt cuộc có mối quan hệ như thế nào? Có bao nhiêu người trong chính phủ của Lincoln đã tham gia vào âm mưu ám sát Lincoln ? Tại sao các nghiên cứu về cái chết của Lincoln trong suốt thời gian dài luôn lạc hướng như vậy? Cái chết của Lincoln cũng giống với cái chết của Kennedy sau đó 100 năm, đều là sự phối hợp mang tính tổ chức trên quy mô lớn, mọi chứng cứ đều bị bịt đầu mối, mọi sự điều tra đều bị đánh lạc hướng một cách hệ thống, chân tướng của sự việc luôn được che phủ bởi một màn sương lịch sử dày đặc.
Muốn hiểu được động cơ và mưu đồ thực sự đằng sau việc Lincoln bị sát hại, chúng ta cần phải tìm hiểu sâu hơn những cuộc đối đầu trong nỗ lực khống chế quyền phát hành tiền tệ của quốc gia này suốt quá trình lập quốc của Mỹ.
QUYỀN PHÁT HÀNH TIỀN TỆ VÀ CHIẾN TRANH ĐỘC LẬP CỦA NƯỚC MỸ 
Trong các cuốn  sách giáo khoa lịch sử phân tích nguồn cơn của cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ có rất nhiều các nguyên tắc và giá trị vừa toàn diện lại vừa trừu tượng được đem ra phân tích và trình bày. Nhưng ở đây, chúng ta sẽ nhìn từ một góc độ khác để tìm hiểu sâu hơn bối cảnh tài chính cũng như vai trò hạt nhân của nó trong cuộc cách mạng này.
Đa số những người đến Mỹ mưu sinh sớm nhất chính là những cùng dân hết sức nghèo khổ, ngoài những hành lý đơn giản đem theo hầu như họ chẳng có tài sản hay tiền bạc gì. Thời đó, ở miền bắc Mỹ người ta vẫn chưa khám phá ra những mỏ vàng bạc lớn như sau này, cho nên nguồn tiền tệ lưu thông trên thị trường cực kỳ thiếu hụt. Thêm vào đó là tỉ lệ nhập siêu của Anh quốc đã khiến cho một lượng lớn tiền vàng bạc chảy về quốc gia của xứ sở sương mù này, và điều đó càng làm tăng thêm tình trạng thâm hụt lượng tiền lưu thông [4].
Phần lớn hàng hóa và dịch vụ do những người dân di cư mới của miền Bắc Mỹ làm ra từ sự lao động khổ nhọc đã không thể được trao đổi hiệu quả do thâm hụt lượng tiền lưu thông, từ đó đã gây cản trở nghiêm trọng đến bước phát triển của nền kinh tế. Để ứng phó với vấn đề nan giải này, người ta buộc phải sử dụng các loại tiền tệ thay thế khác để tiến hành mua bán hàng hóa. Chẳng hạn, các hàng hóa được chấp nhận với mức độ cao như da và lông động vật, vỏ ốc, thuốc lá, gạo, lúa mạch, ngô được sử dụng như một loại tiền. Chỉ riêng ở miền bắc Carolina, từ năm 1715 đã có hơn 17 loại hàng hóa được dùng như tiền tệ quy định (Legal Tender), Chính phủ và người dân có thể dùng những hàng hóa này để tiến hành các hoạt động giao dịch như đóng thuế, trả nợ, mua bán dịch vụ hàng hóa. Khi đó tất cả những loại tiền tệ thay thế này đều lấy đồng bảng Anh làm tiêu chuẩn tính toán. Trong hoạt động thực tế, do giá thành, quy cách, mức độ chấp nhận và tính chất có thể lưu giữ lâu của các loại hàng hóa này khác nhau, nên rất khó cho việc đo lường theo tiêu chuẩn. Ở mức độ nào đó, chúng đã cứu vãn được tình trạng thâm hụt tiền lưu thông đang cấp bách, nhưng nó cũng đã tạo nên tình trạng thắt cổ chai cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa.[5]
Sự thiếu hụt tiền kim loại trong thời gian dài và sự bất tiện trong việc sử dụng các loại tiền hiện vật thay thế đã thúc đẩy Chính phủ  thoát ra khỏi lối tư duy truyền thống, và bắt đầu một thử nghiệm hoàn toàn mới: dùng loại tiền giấy có tên là Colonial Scrip để in tiền – loại tiền chuẩn được pháp luật quy định thống nhất. Sự khác biệt lớn nhất giữa loại tiền giấy này so với chi phiếu ngân hàng đang lưu hành ở châu Âu chính là nó không có bất cứ khoản hiện vật vàng hay bạc nào bảo đảm mà chỉ là một loại tiền tín dụng Chính phủ. Mọi người trong xã hội đều cần phải đóng thuế cho Chính phủ, mà chỉ cần Chính phủ tiếp nhận loại tiền giấy này như bằng chứng của việc nộp thuế, thì nó đã có đầy đủ các yếu tố cơ bản để lưu thông trên thị trường.
Loại tiền mới này quả nhiên đã thúc đẩy sự phát tiển nhanh chóng của nền kinh tế xã hội, các giao dịch hàng hóa cũng ngày càng trở nên nhộn nhịp.
Lúc này, Adam Smith của nước Anh cũng đã chú ý đến sự thể nghiệm tiền tệ mới này của Chính phủ thuộc địa ở bắc Mỹ, và ông hiểu khá rõ vai trò kích thích to lớn đối với thương mại của loại tiền giấy này, đặc biệt là đối với khu vực bắc Mỹ đang thiếu hụt tiền kim loại. Ông cho rằng, “việc mua bán trên cơ sở tín dụng khiến cho các thương gia có thể định kỳ kết toán số dư tín dụng giữa các bên theo mỗi tháng hoặc mỗi năm, và điều này đã giảm thiểu sự bất tiện (trong giao dịch). Một hệ thống tiền giấy được quản lý tốt không những tạo ra sự thuận tiện trong sử dụng mà còn có thể có rất nhiều ưu thế trong một số tình huống nào đó.” [6]
Nhưng một loại tiền tệ không có thế chấp là kẻ thù tự nhiên của các ngân hàng, bởi vì nếu không có các khoản vay của Chính phủ làm thế chấp thì Chính phủ cũng không cần phải vay các khoản tiền kim loại vốn rất thiếu hụt thời bấy giờ, và như vậy, quả cân lớn nhất trên tay của các ngân hàng trong chốc lát cũng mất đi uy lực.
Trong cuộc vi hành của Benjamin Franklin đến nước Anh vào năm 1763, khi được vị chủ quản của Ngân hàng Anh hỏi về nguyên nhân phát triển thịnh vượng của thuộc địa ở châu lục mới, Franklin đã trả lời rằng: “Điều này rất đơn giản. Ở đất thuộc địa, chúng tôi phát hành tiền tệ của riêng mình, gọi là ‘chứng chỉ thuộc địa’. Chúng tôi căn cứ vào nhu cầu của thương nghiệp và công nghiệp để phát hành một lượng tiền tệ cân đối, như vậy, sản phẩm rất dễ dàng chuyển từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng. Dùng phương thức này, chúng tôi tạo ra loại tiền giấy của riêng mình, đồng thời bảo đảm sức mua của nó, và (Chính phủ) của chúng tôi không cần phải trả lợi tức cho bất kỳ ai.”[7]
Loại tiền mới này tất nhiên sẽ dẫn đến việc thuộc địa châu Mỹ thoát ly khỏi sự khống chế của ngân hàng Anh quốc.
Các ngân hàng Anh tỏ ra phẫn nộ và bắt tay nhau hành động. Nghị viện Anh dưới sự khống chế của các nhà ngân hàng đã thông qua “Đạo luật tiền tệ” (Currency Act) vào năm 1764, theo đó, Nghị viện nghiêm cấm các bang trong thuộc địa châu Mỹ in ấn và phát hành tiền giấy của riêng mình, đồng thời yêu cầu Chính phủ các nơi này phải sử dụng toàn bộ vàng và bạc để đóng những khoản thuế cho chính phủ Anh quốc.
Franklin đã miêu tả một cách đau đớn về hậu quả kinh tế nghiêm trọng do đạo luật này mang lại cho các bang ở xứ thuộc địa như sau, “chỉ trong một năm, tình hình (thuộc địa) đã hoàn toàn đảo ngược, thời kỳ phồn thịnh đã kết thúc, kinh tế suy thoái nghiêm trọng đến mức từ đường phố cho đến bến cảng đều tràn ngập những đám người thất nghiệp.”
“Nếu như ngân hàng Anh không tước đoạt quyền phát hành tiền tệ của xứ thuộc địa, thì người dân của xứ thuộc địa sẽ vui vẻ đóng các khoản thuế trà và các sản phẩm khác. Dự luật này đã gây nên tình trạng thất nghiệp và sự bất mãn. Xứ thuộc địa không thể phát hành được tiền tệ của mình, từ đó sẽ không thể thoát khỏi sự khống chế của quốc vương George đệ tam và ngân hàng quốc tế một cách vĩnh viễn, là nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ.”[9]
Những người đặt nền móng xây dựng nên Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có sự nhận thức tương đối sáng suốt về sự khống chế của Ngân hàng Anh đối với nền chính trị của nước Anh và sự bất công đối với người dân. Người hoàn thành bản “tuyên ngôn độc lập” Mỹ  nổi tiếng khi chỉ mới 33 tuổi chính là Thomas Jefferson - Tổng thống thứ ba của nước Mỹ, người có một câu danh ngôn cảnh báo người đời rằng:  
Nếu cuối cùng người dân Mỹ để cho ngân hàng tư nhân khống chế được sự phát hành tiền tệ của quốc gia thì những ngân hàng này trước hết sẽ thông qua việc tăng lạm phát triền tệ, sau đó thông qua việc thắt chặt tiền tệ để tước đoạt tài sản của người dân, cho đến một ngày, khi con cái của họ thức tỉnh, thì họ đã mất đi nhà cửa vườn tược của mình và miền đất mà cha ông họ đã từng khẩn hoang khai phá. [10] 
Sau hơn 200 năm khi lắng nghe lại câu nói này củaJefferson được phát ngôn vào năm 1791, chúng ta vẫn không khỏi kinh ngạc trước sự chính xác đến kinh người trong những lời nói của ông. Ngày nay, các ngân hàng tư nhân quả nhiên đã phát hành hơn 97% lượng lưu thông tiền tệ quốc gia của Mỹ, người dân Mỹ quả nhiên cũng mắc nợ ngân hàng với khoản tiền lên đến con số thiên văn - 44.000 tỉ đô-la Mỹ - và có lẽ một ngày nào đó khi họ thức tỉnh thì cũng sẽ thấy rằng mình đã mất đi nhà cửa vườn tược và tài sản, giống như đã từng xảy ra vào năm 1929.
Khi xem xét kỹ lịch sử và tương lai, những người dẫn đường vĩ đại của Hoa Kỳ đã viết ra một cách rõ ràng trong mục 8 chương 1 Hiến pháp của nước Mỹ rằng: “Quốc hội có quyền in và quy định giá trị của đồng tiền quốc gia.”[11]

Bill Clinton & Nội các Do Thái

I. Nhóm lợi ích Do Thái trong hoạt động kinh tế và chính trị Hoa Kỳ

Nước Mỹ là quốc gia của người nhập cư, tại Mỹ có rất nhiều sắc tộc người chung sống. Cộng đồng sắc tộc dù sống ở Mỹ, làm việc và định cư ở đây song những nhóm nhập cư đều giữ mối liên hệ với Đất Mẹ, đất nước mà họ ra đi. Họ tập hợp với nhau để tìm cách tác động lên chính phủ Mỹ nhằm lái chính sách của Mỹ theo hướng tích cực cho chính phủ của họ. Trong số các nhóm hoạt động mạnh nhất hiện nay phải kể đến nhóm người Mỹ gốc Phi, nhóm người Mỹ gốc Ailen, nhóm người Mỹ gốc Hy Lạp…trong đó tiêu biểu nhất và hoạt động mạnh nhất là nhóm Do Thái

1. Lịch sử hình thành nhóm Do Thái ở Mỹ

Người Do Thái tuy đã sớm có mặt trong những dòng người di cư đến Mỹ nhưng đến năm 1800 cộng đồng người Do Thái ở Mỹ mới có 2000 người. Sang thế kỷ 19 người Do Thái từ các nước Châu Âu bắt đầu di cư ồ ạt đến đây để chạy trốn phong trào bài Do Thái đang phát triển mạnh ở các nước Châu Âu, đặc biệt là Đông Âu và Nga

Ngày đầu trên đất Mỹ người Do Thái vẫn chịu sự phân biệt đối xử của nhóm sắc tộc khác, trong khó khăn người Do Thái đoàn kết gắn bó, họ vươn lên trong mọi mặt của đời sống, khẳng định vị trí trong xã hội Mỹ

Đến năm 1940 cộng đồng người Do Thái ở Mỹ lên đến 4,2 triệu, người Do Thái vươn lên mạnh mẽ, tạo dựng sức mạnh kinh tế đáng kể. Người Do Thái thành công nắm giữ, sở hữu, kiểm soát ngành tài chính Mỹ và thành công trong những lĩnh vực ngành nghề cao cấp nhất trong xã hội như khoa học công nghệ, luật sư, bác sỹ, nhà quản lý, nhà tư tưởng, nhà ngoại giao…

Sau chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc người Mỹ nói chung và người Do Thái tại Mỹ đều bàng hoàng trước thảm cảnh mà người Do Thái ở Châu Âu phải trải qua dưới thời Hitlet. Các nhóm Do Thái đã tăng cường hoạt động, vận động không chỉ quốc hội và chính quyền Mỹ mà cả công chúng Mỹ tạo nên sự ủng hộ mạnh mẽ trong nước Mỹ cho việc thành lập nhà nước Do Thái. Đây là một trong những nguyên nhân khiến chính quyền Mỹ đã công nhận Israel chỉ 11 phút sau khi nước này chính thức tuyên bố thành lập

Israel nhà nước đầu tiên và duy nhất của người Do Thái được thành lập đã thu hút người Do Thái từ khắp nơi trở về. Đa phần người Do Thái ở Mỹ đã không di chuyển về sống ở Israel mà vẫn ở lại định cư tại Mỹ. Song họ cảm thấy có trách nhiệm với sự tồn vong và thịnh vượng của nhà nước này. Đây không chỉ đơn thuần là một trạng thái tình cảm mà còn là sự gắn kết chặt chẽ về tôn giáo. Hơn thế nữa ủng hộ nhà nước Do Thái được coi là cách tốt nhất để người Do Thái khẳng định “chất Do Thái” và bản sắc cộng đồng của mình

2. Tiềm lực kinh tế của nhóm Do Thái ở Mỹ
Người Do Thái ở Mỹ có mặt và thành công trong mọi lĩnh vực kinh tế. Người Do Thái trở thành cộng đồng được đào tạo tốt nhất và có thu nhập cao nhất trên toàn nước Mỹ. 37% người Do Thái có thu nhập bình quân trên 85 000 USD/năm trong khi số này chỉ là 13% đối với phần còn lại của dân số Mỹ

Trong lĩnh vực tài chính, lĩnh vực huyết mạch và có vai trò chi phối sự phát triển của nền kinh tế Mỹ hiện đại, người Do Thái đã tạo lập và duy trì được một ảnh hưởng rất lớn. Ba nhà kiến trúc sư quan trọng nhất của hệ thống tiền tệ, tài chính Mỹ hiện nay đều là người Do Thái
.
Paul Warburg người viết đạo luật dự trữ liên bang, Emamuel Goldenweiser người đã điều khiển hoạt động của Cục dự trữ Liên Bang (FED) trong suốt 30 năm đầu và Harry Dexter While người đã có công thành lập quỹ tiền tệ Quốc Tế (IMF). Hiện nay hoạt động của FED phụ thuộc chặt chẽ vào 8 ngân hang của 8 gia đình Do Thái. Với sức mạnh này nhóm Do Thái có thể gây sức ép trực tiếp lên bất cứ một chính quyền nào

Nhóm Do Thái còn nắm giữ sức mạnh khác đó là giới truyền thông, thông tin đại chúng. Người ta tính cứ 36 người Mỹ mới có một người Do Thái song gần như tất cả những người”định hình nên khái niệm về thực tế, về cái tốt và cái xấu, cái có thể và cái không thể cho công chúng Mỹ” đều là những người Do Thái. Họ nắm trong tay 3 công ty lớn nhất trong ngành truyền hình Mỹ là Amerian Broadcasting Companies(ABC), Columbia Broadcasting System(CBS), National Broadcasting Company(NBC) và 8/10 công ty giải trí lớn nhất của Mỹ tiêu biểu là các tập đoàn Time Warner, Walt Disney, Paramount, 20th Century Fox, Columbia Pictures, Viacom Inc và MCA Inc

Người Do Thái cũng nắm trong tay hang chục tờ báo trong đó quan trọng nhất là 3 tờ: Thời báo New York, Nhật báo phố Wall và tờ Bưu điện Washington cùng hang chục các nhà xuất bản sách trên khắp nước Mỹ. Hai đế chế công nghệ và truyền thông của thời đại Internet là Google và Facebook cũng là do người Do Thái sáng lập. Những nhà công nghệ sáng lập đã nhận sự các khoản đầu tư mạo hiểm từ cộng đồng Do Thái giai đoạn đầu để phát triển công ty lớn mạnh như ngày nay


Do hoạt động của chính quyền Mỹ đặc biệt là trong lĩnh vực đối ngoại phụ thuộc và chịu tác động lớn từ những thông tin mà họ có nên nắm được lĩnh vực này nhóm Do Thái đã gián tiếp tác động đến toán bộ hoạt động của chính quyền Mỹ. Bên cạnh đó thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhóm Do Thái còn tác động đến toàn bộ công chúng Mỹ

Người Do Thái với tài năng và trí tuệ của mình qua hàng trăm năm đã nắm giữ và kiểm soát tất cả các giá trị vô hình và là nền tảng sức mạnh quốc gia của Mỹ. Khác với giá trị văn hóa Do Thái, giá trị văn hóa Việt nam thường ủng hộ việc sở hữu các tài sản hữu hình như đất đai, khoáng sản, chiếm hữu tư liệu sản xuất. Gia đình, dòng họ, xã hội thường ngưỡng mộ những cá nhân chiếm hữu được nhiều tài sản nhất, những người cả cuộc đời theo đuổi mục tiêu xây dựng các giá trị vô hình thường không được tôn trọng

Nguồn tài nguyên lớn nhất của người Do Thái đó là nguồn lực con người và nguồn tài nguyên trí tuệ, sang tạo không bao giờ cạn. Đó là nền tảng giá trị tạo nên sức mạnh, thành công trên mọi lĩnh vực của dân tộc Do Thái

3. Mạng lưới quan hệ nhóm Do Thái toàn cầu

Người Do Thái ở Mỹ ủng hộ Israel còn vì một nỗi sợ rằng, một ngày nào đó họ sẽ bị buộc phải rời Mỹ đi tỵ nạn như điều đã từng thường xuyên xảy ra với tổ tiên của họ và với chính họ. Khi đó Israel sẽ là một đảm bảo cho họ rằng dù có chuyện gì xảy ra thì người Do Thái vẫn luôn có một mái nhà thực sự của mình – Nhà nước Israel

Dân tộc có cùng một đức tin, khát vọng, cùng một nền văn hóa lâu đời đó là những giá trị kết nối dân tộc Do Thái suốt 2000 năm lưu lạc khắp thế giới. Mỗi người Do Thái trên khắp thế giới liên kết với nhau tạo nên sức mạnh tập thể, sức mạnh đó giúp họ chiến thắng được các dân tộc hung mạnh trên thế giới có quy mô dân số và lãnh thổ lớn hơn Israel rất nhiều lần

Hệ tư tưởng chính trị cao nhất mà dân tộc này theo đuổi đó là sự to do, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, mọi người dân Do Thái ở khắp nơi trên thế giới có mong muốn đất nước Israel trở nên hùng mạnh, được các dân tộc và quốc gia khác nể trọng

Người Do Thái sống tập trung ở các quốc gia phát triển nhưng tài sản và hoạt động kinh doanh của họ trải rộng khắp toàn cầu. Các tập đoàn kinh tế Do Thái khắp thế giới liên kết với nhau hiệu quả dựa trên đức tin của cả dân tộc giúp cho các tập đoàn kinh tế Do Thái có ảnh hưởng toàn cầu, chi phối các quốc gia khác

Tại Việt nam doanh nhân Do Thái đã có hoạt động kinh doanh mạnh mẽ sau khi Việt Nam mở cửa đầu năm 90, doanh nhân Do Thái đã bắt đầu sở hữu các giá trị cốt lõi của Việt nam như tham gia lĩnh vực thương mại nông sản café, hạt tiêu, gạo, cao su, sở hữu các bất động sản du lịch nổi tiếng…tham gia gián tiếp thông qua hoạt động đầu tư tài chính ở nhiều lĩnh vực của nền kinh tế

II. Quốc hội Mỹ & Vùng đất bị chiếm đóng của Israel

Hệ thống chính trị Mỹ với sự phân chia quyền lực giữa 3 nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp theo hướng “kiểm soát và cân bằng” là điều kiện hình thành và phát triển các nhóm lợi ích

Cơ chế kiểm soát cân bằng không phép bất cứ một nhánh nào giành được quá nhiều quyền lực hoặc sử dụng không đúng quyền lực của mình trong các quyết sách chính trị. Cả tổng thống và quốc hội đều có thể sử dụng nguyên tắc “Một người đề nghị, người kia bác bỏ”

Hiểu được văn hóa chính trị Mỹ các nhóm lợi ích Do Thái có thể tác động đến nhánh lập pháp để ngăn cản hoặc thúc đẩy nhánh hành pháp thực thi một chính sách nào đó hoặc ngược lại

Thượng nghị sỹ, Hạ nghị sỹ Quốc hội tạo dựng ví trí trong quốc hội dựa trên hoạt động thu hút phiếu bầu của cử chi. Để được bầu hay được tái đắc cử các ứng viên phải luôn chứng tỏ mình là đại diện tốt cho quyền lợi của cử chi, bảo vệ các lợi ích của cử chi. Các ứng cử viên cần vận dụng tất cả các kênh vận động tranh để định hướng lá phiếu của cử chi

Trong một nền chính trị thực dụng như ở Mỹ hiện nay các ứng viên phải trông chờ vào sự vận động dồn phiếu của các nhóm lợi ích. Chi phí vận động tranh cử đắt đỏ và ngày càng tăng trong các cuộc bầu cử ở Mỹ buộc các ứng cử viên phải dựa vào sự ủng hộ tài chính của các nhóm lợi ích. Chính vì điểm này nên ảnh hưởng của các nhóm lợi ích càng được tăng cường, đặc biệt khi nhóm có nguồn lực kinh tế mạnh và khả năng huy động phiếu cao như trong nhóm Do Thái

Với sức mạnh kinh tế to lớn cho phép các nhóm Do Thái giữ quan hệ với gần như tất cả các đại biểu quốc hội. Đa số các nghị sỹ quốc hội nhận nhận các khoản đóng góp tranh cử của nhóm Do Thái

Khi các nhóm Do Thái cần vận động chính sách ủng hộ Israel và lợi ích của nhóm Do Thái ở nước Mỹ cũng như toàn cầu, các nghị sỹ thay mặt cho nước Mỹ phải có trách nhiệm trả nợ cho những người đã giúp họ thắng cử

Các nhóm Do Thái trực tiếp đưa người của mình tham gia vào hoạt động của quốc hội Mỹ,. Trong quốc hội luôn có 10% thượng nghị sỹ và 7% hạ nghị sỹ là người Do Thái

Hoạt động vận động hành lang của nhóm Do Thái ở Mỹ hiệu quả đến mức suốt 60 năm từ ngày thành lập nhà nước Israel mọi chính sách của quốc hội và chính phủ Mỹ luôn ủng hộ Israel. Mỹ ủng hộ Israel trên mọi hoạt động ngoại giao quốc tế, thiên vị Israel trong các vấn đề hòa bình Trung Đông. Các nhà ngoại giao quốc tế, đặc biệt là các nhà ngoại giao các nước Arap không thể hiểu nổi tại sao các chính sách đối ngoại của Mỹ luôn bị chi phối với mong muốn của Israel. Người ta cảm tưởng rằng chính sách đối ngoại của quốc hội và chính phủ Mỹ được xây dựng ở Tel Aviv và được thông qua ở Washington. Quốc hội Mỹ như là một vùng đất bị Israel chiếm đóng, hoạt động vì lợi ích của Israel

Thành công của hoạt động vận động hành lang của nhóm Do Thái tại Mỹ là hình mẫu hiệu quả mà các nhóm vận động hành lang nước ngoài khác tại Mỹ theo đuổi


III. Bill Clinton & Nội các Do Thái

1. Sức mạnh tri thức, trí tuệ và năng lực của lãnh đạo Do Thái

Cộng đồng Do Thái còn được biết đến là cộng đồng có chiến lược xây dựng hệ thống lãnh đạo tốt nhất ở Mỹ. Nhóm Do Thái biết cách lựa chọn trong cộng đồng của mình những cá nhân có tố chất lãnh đạo tốt. Ngay từ nhỏ nhóm Do Thái đã sử dụng nguồn tài chính của cộng đồng tài trợ cho các cá nhân có tố chất lãnh đạo này được đào tạo tốt nhất. Học hành trong các trường học danh giá nhất của nước Mỹ, học đại học, thạc sỹ hay tiến sỹ tại các trường đại học hàng đầu nước Mỹ và hàng đầu thế giới

Những nhân tố lãnh đạo này được tạo điều kiện tham gia lãnh đạo trực tiếp các tổ chức kinh tế của người Do Thái ở Mỹ, các tập đoàn ngân hàng, tài chính lớn nhất toàn cầu. Các công ty công nghệ, công ty truyền thông, tập đoàn đa quốc gia…

Những nhân tố lãnh đạo này được thế hệ người Do Thái thành công dìu dắt, được tham gia đóng góp và điều hành các quan trọng khi còn rất trẻ. Từ thực tế nhóm lãnh đạo này đã trưởng thành, họ có năng lực cao hơn rất nhiều so với nhóm bạn cùng trang lứa của nhóm dân tộc khác đang sinh sống trên đất Mỹ

Những cá nhân được lựa chọn này được đào tạo để trở thành nhà lãnh đạo trong các tổ chức kinh tế xã hội trọng yếu của nước Mỹ trong tương lai. Thế hệ lãnh đạo trẻ này sẽ tiếp tục bảo vệ và duy trì lợi ích của người Do Thái ở Mỹ trong tương lai rất xa

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ đã thành công hơn cộng đồng các dân tộc thiểu số khá vì họ có tầm nhìn đạo tạo ra những cá nhân có tài năng, trí tuệ đủ tầm lãnh đạo nước Mỹ. Nước Mỹ cường quốc số một thế giới, trở thành nhà lãnh đạo nước Mỹ có nghĩa là các hạt giống lãnh đạo Do Thái trở thành người lãnh đạo thế giới

2. Nội các Do Thái 

Nhìn lại lịch sử nước Mỹ và lịch sử chính trị của Bill Clinton chúng ta có thể hiểu được tại sao Bill Clinton có trở thành tổng thống nước Mỹ. Ngay từ khi còn trẻ Bill Clinton đã có tham vọng trở thành một tổng thống Mỹ trong tương lai, ông đã có chiến lược để hiện thực hóa điều đó. Bill Clinton đã tiếp cận được các nhóm lợi ích Do Thái, ông được các nhóm lợi ích Do Thái ủng hộ

Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1992 là cuộc bầu cử đầu tiên ở Mỹ sau thời kỳ chiến tranh lạnh. George H.W. Bush hay còn gọi là Bush Cha lúc đó đã phản đối quốc hội thông qua khoản viện trợ 6,9 tỷ USD để giúp di cư người Do Thái ở Nga và Đông Âu trở về Israel. Ngay lập tức các nhóm vận động hành lang Do Thái đã hành động, ủng hộ Bill Clinton, chi tiền vận động phiếu bầu, loại bở Bush Cha

Bill Clinton trở thành tổng thống Mỹ hai nhiệm kỳ (1993-2001) là một trong những thành công nổi bật của nhóm vận động hành lang Do Thái trong nền văn hóa và chính trị Mỹ

Bill Clinton cần trả ơn những người đã đưa Bill lên, Bill cần xây dựng nội các mạnh giúp ông điều hành nền kinh tế Mỹ phát triển. Cộng đồng người Do Thái đã chuẩn bị sẵn cho Bill những nhà lãnh đạo tài năng nhất nước Mỹ để Bill đưa vào hệ thống chính quyền của mình

Chính phủ của Bill Clinton được coi là chính phủ thân Do Thái nhất trong lịch sử nước Mỹ, 35 % thành viên nội các của Bill là người Mỹ gốc Do Thái. Người Do Thái đã gọi đây là “Thập kỷ vàng của người Do Thái trong nền chính trị Mỹ”, chỉ trong 8 năm cầm quyền Bill Clinton đã bổ nhiệm số quan chức Do Thái bằng tất cả số các quan chức mà tất cả các đời tổng thống trước đã từng bổ nhiệm

Quan chức Do Thái có mặt ở trong tất cả các vị trí nhạy cảm như

-Bộ trưởng Bộ ngoại giao
-Bộ trưởng Bộ tài chính
-Bộ trưởng Bộ quốc phòng
-Bộ trưởng Bộ thương mại
-Bộ trưởng Bộ Lao động
- Bộ trưởng Nông nghiệp
- Giám đốc CIA

Thành viên hội đồng an ninh quốc gia, cố vấn an ninh quốc gia, đại sứ Mỹ ở hơn 30 quốc gia quan trọng trên thế giới là người Mỹ gốc Do Thái. Người Do Thái tác động lên chính sách đối ngoại của Mỹ với thế giới, chính sách đối ngoại của Mỹ trở thành vũ khí bí mật hỗ trợ các tập đoàn kinh tế Do Thái mở rộng ảnh hướng đến mọi ngóc ngách thế giới

Nước Mỹ với vai trò siêu cường số một thế giới về kinh tế, chính trị, quân sự, các chính sách của chính quyền Mỹ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, sự ổn định chính trị và an ninh của nhiều quốc gia trên thế giới

Chính phủ một quốc gia nước ngoài có chiến lược xây dựng đội ngũ vận động hành lang tại Mỹ điều hiểu rằng “Hiểu và tác động đến chính sách của chính phủ hay thái độ của Mỹ có thể sẽ đem đến các khoản viện trợ kinh tế, quan sự quan trọng, cơ hội để mua vũ khí hay sự hậu thuẫn tối cần thiết tại các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế và Liên Hợp Quốc”

Chính phủ nhiều quốc gia đã vận động thành công khi họ biết phải chơi với nhóm lợi ích nào đủ năng lực tác động lên chính sách đối ngoại Mỹ. Nhóm lợi ích Do Thái được các chính phủ nước ngoài lựa chọn, xây dựng kênh quan hệ lợi ích mật thiết để vận động các chính sách đối ngoại có lợi cho họ như quyền tiếp cận nguồn tài chính Mỹ, tiếp cận công nghệ và thị trường Mỹ…

Mối quan hệ ngoại giao, chính trị và lợi ích kinh tế của Việt nam với Mỹ ngày càng lớn, thương mại 2 chiều năm 2010 đạt gần 18 tỷ USD. Hoạt động vận động hành lang Việt nam tại Mỹ ngày càng quan trọng, phương thức tiếp cận vận động hành lang của Việt nam như thế nào doanh nghiệp và người dân không hề biết. Xây dựng cơ chế thông tin như thế nào để doanh nghiệp và mỗi công dân Việt hỗ trợ chính phủ thực hiện các chiến lược vận động hành lang thành công tại Mỹ. Chính phủ Việt nam giành được các chính sách ưu đãi đặc biệt cho chính phủ và quốc hội Mỹ sẽ mang lại cơ hội phát triển rất lớn cho cả nền kinh tế Việt nam

Lobby Israel Club: Bài viết được hoàn thành dựa trên tư liệu một trong những khóa luận suất sắc nhất của Học Viện Ngoại Giao Việt Nam trong 10 năm gần đây của tác giả Phạm Quốc Đạt. Khóa luận phân tích làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Mỹ với Israel và ảnh hưởng của các nhóm lợi ích Do Thái trong nền chính trị Mỹ

Tác giả cho rằng trong một thế giới phát triển và thay đổi liên tục như hiện nay những kiến thức về hoạt động ngoại giao, kiến thức về các nền chính trị quốc tế, yếu tố chính trị của từng quốc gia trên thế giới không còn là kiến thức đặc thù, chỉ một nhóm người tinh hoa trong xã hội biết đến. Kiến thức ngoại giao chính trị quốc tế cần phổ biến để mỗi người dân có hiểu biết về thế giới, mỗi cá nhân sẽ xây dựng chiến lược xác định giá trị của mình trong mối quan hệ toàn cầu đó

Mỗi công dân Việt nam có tư duy, chiến lược toàn cầu sẽ giúp cho nền kinh tế Việt nam hội nhập toàn cầu nhanh nhất và sẽ mang lại nhiều thành công hơn nữa cho quá trình phát triển đất nước

Người Do Thái và giải Nobel


Dường như là, mỗi khi bàn luận về sự thông minh có di truyền không, người ta đều nêu lên dẫn chứng về giải Nobel và người Do Thái. Và cũng như một thông lệ, hàng năm sau khi công bố giải, người ta đều hỏi người Do Thái chiếm bao nhiêu phần trăm giải năm ấy. Và thực tế thì con số này không hề nhỏ.
Ví dụ chỉ sau khi vừa công bố 3 giải Nobel 2011 đầu tiên vào đầu tháng mười vừa qua, lập tức có một bài báo nhan đề “Bà mẹ Yiddeshe có thể tự hào: Năm trong bảy Nobel gia là người Do Thái”. Đó là: Ralph Steinman và Bruce Beutler, giải Nobel về Y học, Saul Pelmutter và Adam G. Ross - giải Nobel về Vật lý, Daniel Shechtman - giải Nobel về Hoá học.
Daniel Shechtman, nhà khoa học Isarel đoạt giải Nobel Hóa học 2011
Daniel Shechtman, nhà khoa học Isarel đoạt giải Nobel Hóa học 2011.
Dân tộc Do Thái là một trong những dân tộc có nền văn hoá và lịch sử lâu đời nhất của nhân loại, ra đời cùng với thời kỳ văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà và văn minh Hy Lạp-La Mã thời cổ đại. Nhưng lịch sử bắt họ phải chịu một số phận không may mắn, bị các bộ tộc và các lãnh chúa khác xâm chiếm đất đai và xua đuổi dưới những lý do tôn giáo. Từ đó họ phải sống tha hương, từng nhóm kéo nhau đi khắp mọi nơi trên thế giới để duy trì sự sinh tồn, vượt qua những định mệnh nghiệt ngã của lịch sử.
Trên 2000 năm qua, đi đến đâu họ cũng tỏ ra là một dân tộc có sức sống dẻo dai, không bị đồng hoá và ý thức vươn lên mãnh liệt. Trong công việc họ cần cù, kiên trì và quyết tâm đạt những mục đích mình theo đuổi. Bởi vậy, gần như sống ở đâu họ cũng thành công.
Sự thành đạt và khôn ngoan của họ nhiều khi bị thành kiến và kỳ thị. Trong Thế chiến II, dưới chế độ phát xít, khi Hitler đề cao thuyết “người Đức là một dân tộc thượng đẳng”, y rất sợ sự vượt trội của người Do Thái, nên dã bắt họ sống trong các trại tập trung, đày đoạ họ với ý đồ để họ chết dần chết mòn trong đó.
Người Do Thái đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực trí tuệ. Họ thường là những nhà khoa học lớn, những doanh nhân lỗi lạc, những nhà văn kiệt xuất, những nhà tư tưởng uyên bác, những chính trị gia tài giỏi…
Từ năm 1901, giải Nobel được thành lập và trở thành một giải thưởng uy tín nhất và danh giá nhất hành tinh, tôn vinh những người có đóng góp lớn nhất cho nhân loại, có những phát minh đột phá, những tác phẩm văn chương thấm đẫm tính nhân văn, những người có công lao kiến tạo một thế giới an bình hơn, tốt đẹp hơn. Người Do Thái lập tức trở thành một yếu tố quan trọng của giải, dù họ sống ở các nước khác nhau, mang quốc tịch khác nhau hoặc chính tại đất nước mới thành lập cách nay không lâu của họ là Israel.
Tính đến năm 2011, giải Nobel đã trao 108 lần (trừ 4 năm trong Thế chiến I và II không trao giải) cho trên 800 nhân vật và các tổ chức xã hội. Nếu tính tất cả các giải, ít nhất có 181 người Do Thái (thuần chủng, hoặc từ 1/2 đến 3/4 dòng máu Do Thái) được trao giải Nobel, chiếm 22% số nhân vật được coi là những trí tuệ hàng đầu của nhân loại.
Trong các giải Nobel qua hơn một thế kỷ, tỉ lệ số người Do Thái chiếm lĩnh các giải Nobel trong các lĩnh vực như sau:
- Hoá học: 32 người, chiếm tỷ lệ 21%
- Kinh tế: 28 người, chiếm tỷ lệ 42%
- Văn chương: 13 người, chiếm tỷ lệ 12%
- Vật lý: 49 người, chiếm tỷ lệ 27%
- Hoà bình: 9 người, chiếm tỷ lệ 8%.
Cần lưu ý rằng số người Do Thái trên Trái đất là 20 triệu (cả trong và ngoài nước) nghĩa là chưa đến 0,2% dân số thế giới. Như vậy, trong khi dân số thế giới là gần 8 tỷ với trên 800 giải Nobel, thì bình quân số giải trên đầu người của người Do Thái so với bình quân của thế giới cao hơn đến 11.950%. Song đó chỉ là so sánh cho vui thôi, chứ con số này không mấy ý nghĩa bởi kèm theo nó còn bao nhiêu điều kiện khác nữa.
Nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ XX, Albert Einstein cũng là người Mỹ gốc Do Thái.
Nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỷ XX, Albert Einstein cũng là người Mỹ gốc Do Thái.
Người ta thường nói giải Nobel trong vài chục năm gần đây đổ dồn về Mỹ. Song ít ai để ý, trong những “giải Nobel mang thương hiệu Mỹ” thì người Mỹ gốc Do Thái chiếm một phần quan trọng.
Xin nêu một vài con số: Giải Nobel Hoá học của Mỹ có 27% là người gốc Do Thái, Nobel Vật lý - 37%, Nobel Y học&Sinh lý học - 42%, Nobel Kinh tế - 55%, Nobel Văn chương - 27%, Nobel Hoà bình 10%. Và cũng xin nhớ rằng dân số của cộng đồng Do Thái chỉ bằng 2% của Mỹ.
Trí tuệ Do Thái thể hiện không chỉ ơ nam giới mà cả nữ giới. Trong 4 ngành khoa họccó 18 nữ Nobel gia thì 36% là các bà gốc Do Thái, tỷ lệ còn cao hơn cả các ông.
Nếu không kể giải Nobel, thì bất cứ giải quốc tế nào khác, tỷ lệ các nhà khoa học Do Thái cũng tương tự. Chỉ xin kể một giải chúng ta đã nói nhiều là giải Fields thì các nhà toán học trẻ người Do Thái được giải chiếm 27%, giải thành tựu suốt đời trong Toán học, họ chiếm tới 55%.
Các Nobel gia người Do Thái cũng nằm trong một số “điều đặc biệt” của giải. Chẳng hạn Elia Wiesel, người sống sót từ trại tập trung của phát xít Đức được giải Nobel Hoà bình năm 1986. Nhà Nobel cao tuổi nhất khi được trao giải là người Balan gốc Do Thái, Leonid Hurwicz, giải Nobel kinh tế 2007 năm ông đã 90. Nobel gia sống thọ nhất là bà Rita Levi-Montalcini, giải Nobel Sinh lý học 1936 hiện đã vượt qua tuổi 102 hoặc một nhà văn bị nhà nước buộc không được nhận giải là Boris Pasternak, giải Nobel văn học năm 1958. Nhà khoa học được bình chọn là nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ XX - Albert Einstein – cũng là người Mỹ gốc Do Thái.
Theo Vietnamnet

Học gì khi làm ăn với người Do Thái - Đôi điều suy nghĩ!


Trước kia khi chưa làm ăn với người Do Thái, tôi cũng không biết nhiều lắm về dân tộc này và chỉ biết sơ qua người Do Thái là một dân tộc lưu lạc khắp nơi trên thế giới, làm kinh tế rất giỏi và trong thế chiến thứ 2, Hitle đã quyết truy sát và tìm mọi cách diệt chủng dân tộc này. Nhưng khi gặp và làm ăn với họ, tìm hiểu về người Do Thái tôi vô cùng nể phục và hiểu được một phần vì sao họ thống trị nền kinh tế thế giới hiện nay. Tôi nghĩ các doanh nhân Việt Nam chúng ta nên học hỏi cách kinh doanh làm giàu của người Do Thái và nên lôi kéo họ đầu tư vào Việt Nam để nâng cao thương hiệu quốc gia ra toàn thế giới thông qua cộng đồng hùng mạnh này.

Người Do Thái rất coi trọng trí tuệ và sự uyên bác. Đối với họ việc học là không ngừng, học nữa học mãi. Doanh nhân Do Thái buộc phải có học vấn và coi học vấn là một nghĩa vụ suốt đời. Người Do Thái thường nói: “ Nước trong giếng sâu không bao giờ hết, còn nước trong giếng cạn sẽ chóng cạn kiệt tới đáy”. Khi xem lại giải Nobel kinh tế thế giới, tôi chợt giật mình khi thấy tới một phần ba các nhà kinh tế đạt giải là người Do Thái. Họ khuynh đảo thị trường tài chính thế giới, thống trị các ngân hàng đến nỗi Montesquieu nói: “ ở đâu có tiền bạc ở đó có người Do Thái”. Sâu hơn nữa tìm hiểu, tôi thấy những người giàu nhất thế giới hiện nay đều có nguồn gốc Do Thái: Bill Gates, Warren Buffett, Micheal Dell, Roman Abramovic…Người Do Thái cũng có nhiều điểm tương đồng người Việt Nam như chịu khó, lam lũ và thông minh. Nhưng có một điều khác nhau rất lớn giữa người Do Thái và Việt Nam mà tôi nghĩ là người Việt Nam ta hay tự ái rất cao nên không chịu học hỏi, thông minh nhưng không chịu đầu tư vào trí tuệ, chính vì như thế hiện nay ở Việt Nam chúng ta có rất nhiều người giàu có nhưng cách ứng xử bị gọi là “trọc phú”, việc học hành theo một số doanh nghiệp VN hiện nay vẫn còn mang quan niệm cho là chỉ dành cho các học giả trí thức uyên thâm, chứ doanh nhân là chỉ lo làm giàu, kiếm tiền chứ không như người Do Thái, càng giàu họ càng đi học.�


Tôi biết hiện nay vẫn có rất ít thương gia Do Thái qua tìm hiểu làm ăn và đầu tư tại Việt Nam và thị trường Việt Nam vẫn còn rất mới mẻ đối với họ. Ray Barret, khách hàng đầu tiên người Do Thái của tôi là chủ một hãng thương mại, đối tác chính cung cấp hàng cho hệ thống siêu thị bán lẻ Costco của Hoa Kỳ và Canada. Lần đầu tiên Ray Barret đến Hồ Chí Minh qua lời giới thiệu của công ty mẹ bên Canada, khi đón Ray tại sân bay Tân Sơn Nhất tôi cứ nghĩ Ray Barret sẽ mặt áo choàng như những người theo đạo mà tôi thường gặp nhưng không, Ray mặc đồ bình thường như mọi thương gia và đặc biệt trên đầu ông ta có một chiếc mũ đen nhỏ đội giữa đỉnh đầu, biểu tượng của người theo đạo Do Thái. Với lối ăn nói cực kỳ lịch sự nhỏ nhẹ và ngoại giao, Ray đã để lại ấn tượng tốt cho ai mới lần đầu gặp mặt. Hôm đó là thứ 6, tôi đặt phòng cao cấp Executive suite cho Ray ở tầng thứ 22 cao nhất ở khách sạn Sheraton Sài Gòn với mục đích sẽ tạo cho Ray một bất ngờ với cityview thật đẹp nhìn ra sông Sài Gòn, tôi đâu biết rằng thiện ý của tôi chính là cái tai hại thiếu hiểu biết của mình khi không tìm hiểu kỹ văn hóa người Do Thái. Sau khi check-in xong tôi đưa Ray vào thang máy để lên phòng của mình thì Ray nói không thể đi thang máy được vì hôm nay là thứ 6 tối cuối tuần, người Do Thái không được đi và chạm tay vào bất cứ đồ điện tử nào. Thế là Ray lững thững cuốc bộ lên đến tầng 22 cao nhất của khách sạn với cái “cityview bất ngờ” của tôi. Ôi, sao có cái luật lệ đạo nghiêm khắc thế giữa cái thế giới hiện đại công nghệ này. Tôi bị ngớ người vì lần đầu tiên tiếp khách bị hố và một bài học lớn cho mình trước khi gặp gỡ một khách hàng người nước ngoài nên tìm hiểu kỹ văn hóa tín ngưỡng của dân tộc đó để chủ động. Đặc biệt những thương gia mới lần đầu tiên qua Việt Nam. Nếu biết trước, tôi đặt phòng ở tầng 1 hay 2 là thích hợp rồi. Chỉ khổ cho Ray Barret, đổ mồ hôi đưa tấm thân mệt mỏi sau chuyến bay dài của mình lên tầng 22 “cao nhất bất ngờ” của tôi.�


Cũng hôm đó, tôi ngồi đợi Ray ở lobby khách sạn để chờ đi ăn tối, trước khi Ray qua tôi cũng đã tìm hiểu một số quán ăn cho người Do Thái, tôi đã cẩn thận điện hỏi khắp nơi có phải nhà hàng Kosher phục vụ cho người Do Thái không ?, ai cũng nói “yes” cả, ở đây có nhiều người theo đạo khắp nơi trên thế giới đến ăn. Khi Ray xuống, tôi hồ hởi nói với Ray bây giờ tôi sẽ đưa Ray đi ăn nhà hàng Do Thái ở Hồ Chí Minh để Ray thưởng thức món ăn Do Thái của mình tại Việt Nam. Ray nhìn tôi ngạc nhiên và nói “ làm gì có nhà hàng Do Thái ở Hồ Chí Minh và chắc chắn ở HCM chưa có nhà hàng nào cho người Do Thái cả đừng đến đó làm gì cho mệt”, tôi khẳng định với Ray tôi sống ở đây và tôi biết có vì tôi đã điện thoại đặt trước rồi. Cuối cùng Ray mỉm cuời và đi theo tôi tới nhà hàng cho người Do Thái của tôi. Nhà hàng tôi đưa Ray đến là nhà hàng Four Seasons tọa lạc ở số 2 Thi Sách, quận 1. Khi đến nơi, vừa thấy biểu tượng bên ngoài nhà hàng, Ray không vào và nói đây không phải là nhà hàng Do Thái mà là nhà hàng cho người theo đạo Hồi, Muslim. Mà người theo đạo Hồi- Muslim lại là những người không đội trời chung với người Do Thái- Jewish. Hỡi ôi… Tôi quay ra xe và cùng Ray đi. Tôi vội gọi cho quán thứ 2, thì ra đó cũng là quán ăn Hồi Giáo, tôi hỏi tại sao tôi điện thoại hỏi trước lại nói đây là quán ăn cho người Do Thái, em phục vụ cầm máy trả lời:” thì có biết người Do Thái là người gì đâu, cứ tưởng cũng giống như người Hồi Giáo, Do Thái với Hồi Giáo là một”…trời ơi..có chết tôi không chứ. Cái thằng hai lúa từ Tiên Phước vô Sài Gòn như tôi không biết đã đành sao em cũng hai lúa còn hơn tôi vậy ?. Bây giờ Ray mới nói, ở Sài Gòn chỉ có một chỗ cho người Do Thái ăn nhưng gia đình này mới mở và chỉ mang tính cách gia đình thôi, quán ăn đó nằm trong một hẻm ở đường Lê Lợi, đối diện chếch về bên trái chợ Bến Thành khoảng 250m. Ray Barret làm tôi quá ngạc nhiên và hỏi tại sao Ray lại biết rành như vậy vì đây là lần đầu qua Việt Nam. Ray nói một câu làm tôi nhớ mãi : “người Do Thái luôn biết trước những gì mình làm và nơi nào mình đi”. Thì ra họ có một worldwide network, liên hệ với nhau rất chặt chẽ và thông tin nội bộ rất chính xác. Thế là từ vị trí chủ nhà tôi biến thành khách và để khách hướng dẫn đi ngay trên quê hương của mình. Thật buồn cười ! cuối cùng loanh quanh trong hẻm Lê Lợi chúng tôi cũng tìm ra được quán ăn gia đình Do Thái đó. Sau khi làm vài món khó ăn, chúng tôi ra về, Ray nói quán ăn đó nấu đó ăn cũng chưa ngon lắm và cũng chưa đúng kiểu Do Thái. Thế là những ngày sau đó, Ray đi làm với tôi và ăn thức ăn của mình đem theo, toàn là mì tôm ăn liền dành cho người Do Thái. Điều đặc biệt là tô, đũa và vật dụng Ray đều đem theo chứ tuyệt đối không chạm và ăn đồ dùng ngoài. Còn nếu có ăn gì khác ở ngoài thì chỉ ăn trái cây với điều kiện dĩa đựng trái cây phải bọc giấy bạc. Nhìn cảnh một triệu phú như Ray mà phải chịu cực ăn mì tôm hoài như vậy làm tôi cứ nghĩ mãi về người Do Thái và kỷ luật bản thân của họ ?. Có lần tôi buộc miệng hỏi Ray, sao lại làm vất vả như thế mà chịu cực như vậy khi đi xa chịu sao nổi ?, Ray chỉ mỉm cười ý nhị không nói gì cả. Trong thời gian đi làm, cứ khoảng 1 tiếng đồng hồ là Ray phải tìm một nơi nào đó để cúng hay cầu nguyện cái gì đó, nếu đang đi trên xe ôtô thì dừng lại khoảng 5 phút cho Ray ra ngoài đứng bên vệ đường cầu nguyện. Có mấy người khách qua đường ngoái nhìn lại không hiểu ông Tây này đang làm cái gì như thầy cúng vậy. Nhưng cách làm việc của Ray Barret thì thật khủng khiếp, thời gian tính từng phút giây và không kể ngày đêm, mặc dầu ăn uống kham khổ vì ở VN không có nhà hàng Do Thái. Sau 5 ngày làm việc tích cực ở VN ở hai đầu Nam Bắc. Ray Barret lên máy bay về nước và nói sẽ không quên Việt Nam và tôi, không biết có thật không ?. Tôi thì chỉ gãi đầu và bắt tay ông mong gặp lại sớm nhất. Sau khi về từ sân bay, ý tưởng kinh doanh lóe trong đầu tôi là phải mở ngay một nhà hàng Do Thái tại Sài Gòn, chắc chắn trước sau gì những thương gia này sẽ đổ bộ đầu tư vào Việt Nam cùng với cộng đồng hùng mạnh của họ. Vì theo xu thế hiện nay, có rất nh
iều nhà đầu tư Do Thái rất muốn chuyển hướng từ Trung Quốc, các nước Đông Nam Á khác vào Việt Nam. Rất tiếc tôi không rành về kinh doanh nhà hàng và đặc biệt không hiểu lắm về món ăn Do Thái. Nếu bạn nào làm được cứ thực hiện ý tuởng này hoặc kết hợp với tôi mở làm thử cái nhé. Đây là một thị trường còn bỏ ngõ ở Sài Gòn.

Doanh nhân Do Thái thứ hai tôi gặp là John Bellamy, ông là một trong những nhà nhập khẩu lớn ở Bắc Mỹ một loại hàng thuộc công nghiệp nặng. Do có kinh nghiệm tiếp khách từ trước với Ray Barret nên cuộc làm việc với John tương đối suôn sẻ hơn. Tất nhiên John và Ray biết nhau rất rỏ và thân nhau nữa vì cùng là thương gia lớn ở Bắc Mỹ và cùng dân Do Thái. John cũng lần đầu tiên tới Việt Nam và cũng rất phấn khởi khi thăm và làm việc tại Sài Gòn và Hà Nội, ông nói ông cũng rất muốn mua hàng và tìm hiểu về Việt Nam. Khi đi làm việc với ông, tôi rất bất ngờ trước những quyết định nhanh và quyết đoán của ông. Hợp đồng thực hiện rất nhanh và mạo hiểm ngay trong những ngày thị trường thế giới đang biến động. Ngân hàng đại gia Lehman Brother vừa sụp đổ bên Hoa Kỳ. Phải nói cách làm việc, làm ăn của người Do Thái rất khác người và khác biệt. Tôi có kể chuyện với John lần đầu Ray qua Việt Nam, John nói với tôi rằng, thực ra ở Việt Nam mọi người còn hơi lạ với giới doanh nhân Do Thái chứ ở Hồng Kông hay ở Thượng Hải thì các khách sạn tiêu chuẩn 5 sao đều biết cách phục vụ riêng cho người Do Thái. Khi hạng khách thượng lưu này đến họ đều biết cách chế biến món ăn và phòng ốc riêng cho họ. Và trong phòng khách sạn đều có lò nướng viba để họ tự nấu ăn. Hôm ở Hà Nội tại khách sạn Intercontinental West Lake, tôi phải hướng dẫn nhân viên khách sạn nướng đồ ăn cho John bằng lò nướng viba của nhà bếp cộng với giấy bạc, họ rất ngạc nhiên trước vị khách này. Tôi thấy cả Ray và John đều rất hay điện thoại về cho vợ khi đang đi làm, họ nói thường thì người Do Thái người vợ ở nhà nuôi dạy con trẻ và chồng đi làm chủ lực. Con cái hơn 18 tuổi thì tự lực cánh sinh, điều quan trọng là phải học và học mãi. Cốt cách dân tộc và di truyền tư duy của người Do Thái rất rõ ràng. Hôm John về nước phải ghé qua Hồng Kông, vì đi chuyến bay tối tới HK khoảng 12h khuya nên sợ nhà hàng Do Thái ở đó đóng cửa, ở Hồng Kông chỉ có 2 nhà hàng Do Thái. John nhờ tôi phone hỏi thử lúc đó còn chờ khách không, tôi gặp quản lý nhà hàng đó và bà ta nói rằng : “ họ sẽ đóng cửa lúc 11h30 tối nhưng họ sẵn sàng đợi ông đến 2h khuya để phục vụ”. Có như vậy mới biết service ở Hồng Kông tốt đến mức nào, tôi còn lưu tên nhà hàng đó “Mul Hayam – Glatt Kosher, 62 Mody Rd, Tsimshatsui Kowloon, HK. Tel: 852 2366 6364”.


Có rất nhiều bí quyết để người Do Thái làm giàu nhưng theo tôi sau khi tiếp xúc và làm việc với họ, tôi thấy người Do Thái mặc dù rất giàu nhưng họ rất chăm chỉ, chịu khó làm ăn, kỷ luật bản thân rất nghiêm khắc, không ăn chơi và luôn giữ chữ “ tín” với đối tác rất cao. Không bao giờ thỏa mản chính mình, họ là : “có một dạng người nghèo mà mọi người thường gọi là nghèo “rớt mồng tơi”. Họ thà làm người đứng đầu trong đội ngũ những người nghèo còn hơn là làm người đứng cuối trong đội ngũ những người giàu”. Một điểm lớn đáng để học hỏi nữa là người Do Thái cực kỳ đoàn kết khi ở nước ngoài, tinh thần tự lập tự tôn dân tộc rất cao, biết người biết mình để kết hợp kiếm tiền, làm giàu. Cái này chúng ta vẫn thua rất xa và phải học hỏi. Chính vì mạng lưới đoàn kết như vậy, nên khi thị trường thay đổi họ có thông tin rất nhanh để xoay chuyển tình thế. Qủa là đáng suy ngẩm khi một dân tộc mà từ hơn 2000 năm trước tổ quốc bị ngoại xâm, phải phiêu du khắp nơi mưu sinh, tồn tại và phát triển. Họ từng bị xua đuổi, thậm chí bị lâm vào nạn diệt chủng nhưng vẫn vươn lên thịnh vượng và giàu có như hôm nay. Cách sống và làm giàu của người Do Thái rất đáng cho Việt Nam chúng ta học hỏi.


Lê Quang Nhật -� Director

AIPL Canada – Vietnam Rep


Các bạn có thể cùng thảo luận những suy nghĩ của mình ở dưới:

Vì sao người Do Thái thông minh và Việt Nam chúng ta có thể học tập được gì?


"Người Do Thái là dân tộc thông minh nhất thế giới, họ dường như được sinh ra là để làm chủ thế giới này". Có bao giờ bạn tự hỏi tại sao họ lại thông minh như vậy? Tại sao họ lại được sinh ra với quá nhiều ưu việt như thế? Có phải tất cả đều là tự nhiên? Liệu Việt Nam chúng ta có thể tạo ra những thế hệ ưu việt như thế không? Tất cả câu hỏi trên đều có thể giải đáp được, ngoại trừ câu hỏi cuối cùng vì nó sẽ được trả lời bởi chính các bạn, những con người của dân tộc Việt Nam.


Bài viết dưới đây được lấy từ blog của tác giả Thanh Hằng trên mạng My Space. Nó được lược dịch từ luận án của một tiến sĩ nước ngoài với tiêu đề gốc là "Why Jews Are Intelligent" [1] (tạm dịch là "Vì sao người Do Thái thông minh"). Bài viết rất hay và có ý nghĩa nhưng chỉ có điều do được đăng ở một blog nên tính phổ biến không cao. Tôi xin phép đăng bài viết ở đây với hi vọng bài viết này sẽ đến được với nhiều người Việt Nam hơn.

Trước hết xin được cung cấp một số thông tin tìm hiểu được về IQ của người Do Thái. Hiện nay các nhà nghiên cứu về giáo dục và tâm lý tin rằng IQ TB của người Do Thái vào khoảng từ 107,5 đến 115 (sd15). Để so sánh thì IQ TB của thế giới là 100 và IQ của người Việt Nam (theo một khảo sát) là 94. Cách biệt sẽ không rõ ràng nếu chỉ nhìn vào những con số này.Mọi thứ sẽ trở nên thực sự khác biệt nếu như ta so sánh đến tỉ lệ "thiên tài" (IQ>=140 - cũng là mức yêu cầu của VNHIQ) trong số dân. Với IQ TB của dân số là 94 thì tỉ lệ "thiên tài" sẽ là 1/924 hay 0,1%, tỉ lệ này sẽ là 1/261 hay 0,4% nếu IQ TB là 100. Sự khác biệt sẽ cực lớn vì với mức IQ TB là 110 như người Do Thái thì tỉ lệ những người có IQ đạt mức thiên tài này sẽ lên tới 2,3% (nghĩa là cứ 100 người sẽ có hơn 2 thiên tài)

Sau đây là bài dịch của tác giả Thanh Hằng:

"Bài này tôi lược dịch và tổng hợp từ nhiều nguồn, nhân dịp nghe chuyện người Do Thái và vì thầy hướng dẫn hiện tại của tôi là một Giáo sư người Do Thái ở Anh có tên tuổi khiến tôi đi hêt từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Để mở đầu, xin được trích dẫn rằng, dân số Do Thái trên thế giới hiện nay vào khoảng xấp xỉ 13 triệu người (tức là khoảng 0.21% dân số thế giới - số liệu năm 2000), tức là cứ 470 người thì có 1 người Do Thái. Vậy nhưng, vào khoảng giữa thế kỷ 19, 1/4 các nhà khoa học trên thế giới là người Do Thái, và tính đến năm 1978, hơn một nửa giải Nobel rơi vào tay người Do Thái. Như vậy có đến 50% đóng góp cho sự tiến bộ của loài ngưởi chỉ do 0.21% dân số đảm nhiệm.

Những tên tuổi lớn của thế kỷ 20 có thể kể đến như bộ óc thế kỷ Albert Einstein, Sigmund Freud, người sáng tạo ra chủ nghĩa Cộng sản Karl Marx, Otto Frisch, .v.v. đều là người Do Thái.

Dù không phải là chủng tộc lớn, vậy nhưng không một nhóm chủng tộc nào có thể sánh được với người Do Thái về khả năng và thành tích vượt trội. Kết hợp với những tính cách di truyền của người Do Thái như tham vọng, ham hiểu biết, tích cực, trí tưởng tượng phong phú, bền bỉ, sự thông minh của người Do Thái thực sự đã là đòn bẩy khiến người Do Thái đứng đầu trong tất cả các lĩnh vực cuộc sống.

Những tên tuổi Do Thái hiện nay có thể kế đến là nhà tài phiệt George Soros (người có thể làm khuynh đảo thị trường tài chính thế giới, được xem là người đứng sau sự sụp đổ hệ thống chính trị cộng sản ở Đông Âu và khủng hoảng tài chính Châu Á 1997); các cựu và chủ tịch Ngân hàng thế giới World bank đương nhiệm đều là người Do Thái ví dụ như James Wolfensohn, Paul Wolfowitz, Robert Zoellick. Diễn viên điện ảnh thông minh và có học thức thuộc hàng top Hollywood hiện nay là Natalie Portman cũng là người Do Thái, vừa theo học ĐH Havard và tham gia bộ phim siêu phẩm Chiến tranh giữa các vì sao.

Trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống như kỹ thuật, âm nhạc, khoa học và kinh doanh, 70% các hoạt động kinh doanh thế giới hiện nay đều do người Do Thái nắm giữ. Các lĩnh vực kinh doanh nổi bật như mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm, vũ khí, khách sạn, công nghiệp phim ảnh (kể cả Hollywood và các trung tâm điện ảnh khác).

Trong năm thứ 2 đại học, vào tháng 12 năm 1980, tôi định đến California và tôi nảy ra ý tường, tôi tự hỏi sao trời lại cho họ những khả năng siêu phàm như vậy, liệu có điều gì trùng hợp chăng, loài người có thể tạo ra những người giống họ như việc sản xuất hàng hóa từ nhà máy không? Luận văn của tôi mất 8 năm để tập hợp thông tin từ tất cả các nguồn tin chính xác như đồ ăn, văn hóa, tôn giáo, sự chuẩn bị khi mang thai, .v.v. và tôi đem so sánh với những chủng tộc khác.

Hãy bắt đầu bằng việc chuẩn bị cho thai kỳ. Ở Israel, điều đầu tiên tôi nhận thấy đó là người mẹ khi mang thai sẽ thường xuyên hát, chơi đàn, và luôn cố gắng giải toán cũng chồng. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy người mẹ luôn mang theo sách toán và đôi khi tôi giúp cô giải bài. Tôi hỏi cô, ‘việc này có phải là giúp cho thai nhi?’. Và cô trả lời, ‘Đúng vậy, tôi làm thế là để đào tạo đứa trẻ từ khi còn trong bụng mẹ như vậy nó sẽ trở nên thông thái về sau.’ Và cô tiếp tục làm toán cho đến khi đứa trẻ được sinh ra.

Một điều khác tôi nhận thấy là đồ ăn. Người mẹ rất thích ăn hạnh nhân, chà là cùng sữa tươi. Bữa trưa cô ăn bánh mỳ và cá (không ăn đầu), salad trộn với hạnh nhân và những loại hạt khác vì họ tin rằng thịt cá tốt cho sự phát triển trí não nhưng đầu cá thì không. Thêm vào đó, theo văn hóa của người Do Thái, người mẹ khi mang thai sẽ cần phải uống dầu gan cá.

Khi tôi được mời đến dùng bữa tối, tôi thấy rằng họ luôn dùng cá (phần thịt ở mình cá), họ không ăn thịt vì họ tin rằng thịt và cá khi ăn chung sẽ không tốt cho cơ thể. Salad và các loại hạt là điều bắt buộc, đặc biệt là hạnh nhân.

Họ luôn ăn hoa quả tươi trước bữa chính. Lý do là vì họ tin rằng việc ăn bữa chính trước rồi hoa quả sẽ khiến chúng ta buồn ngủ và khó tiếp thu bài ở trường.

Ở Israel, hút thuốc là điều cấm kỵ. Nếu bạn là khách thì không nên hút thuốc trong nhà họ, họ sẽ lịch sự mời bạn ra ngoài để hút thuốc. Theo các nhà khoa học ở Đại học Israel, chất nicotine sẽ phá hủy những tế bào cơ bản trong cơ thể đồng thời ảnh hưởng đến gen và DNA (tế bào di truyền) dẫn đến sự thoái hóa bộ não.

Đồ ăn cho trẻ cũng luôn trong sự hướng dẫn của cha mẹ. Đầu tiên, hoa quả ăn cùng với hạnh nhân, sau đó là dầu gan cá. Theo đánh giá của tôi, những đứa trẻ Do Thái đều biết 3 thứ tiếng, ví dụ như tiếng Do Thái, Ả rập và tiếng Anh. Từ khi còn nhỏ, trẻ em đã được học đàn piano và violin, và đây là điều bắt buộc. Làm như vậy vì họ tin rằng điều này sẽ làm tăng chỉ số thông minh của trẻ và sẽ khiến con họ trở nên thông minh. Cũng theo các nhà khoa học Do Thái, sự rung động của âm nhạc sẽ kích thích bộ não và đó là lý do vì sao có rất nhiều thiên tài người Do Thái ...

Từ lớp 1 đến lớp 6, những môn học ưu tiên trẻ em được dạy các môn về kinh doanh, toán học, khoa học. Để so sánh , tôi có thể nhận thấy trẻ em ở California, chỉ số IQ của chúng khoảng 6 năm về trước. Tất cả trẻ Do Thái đều tham gia vào các môn thể thao như bắn cung, bắn sung, chạy bộ vì họ tin rằng bắn cung và bắn súng sẽ rèn luyện cho bộ não trở nên tập trung vào cách quyết định và sự chính xác.

Ở trường trung học, học sinh sẽ giảm dần việc học khoa học mà sẽ học cách tạo ra sản phẩm, đi sâu vào những kiểu bài tập thực tế như vậy. Dù một số dự án/bài tập có vẻ nực cười và vô dụng, nhưng tất cả đều đòi hỏi sự tập trung nghiêm túc đặc biết nếu đó là những môn thuộc về vũ khí, y học, kỹ sư, ý tưởng sẽ được giới thiệu lên các viện khoa học hoặc trường đại học.

Khoa kinh doanh cũng được chú trọng ưu tiên. Trong năm cuối ở trường đại học, sinh viên sẽ được giao một dự án và thực hành. Họ sẽ hoàn thành nếu nhóm của họ (khoảng 10 người/nhóm) có thể tạo ra lợi nhuận 1 triệu USD. Đừng ngạc nhiên, đây là thực tế và đó là lý do vì sao một nửa hoạt động kinh doanh trên thế giới là của người Do Thái. Thiết kế mẫu thời trang mới nhất của Levis là của khoa kinh doanh và thời trang của trường ĐH Israel.

Đã bao giờ bạn thấy họ cầu nguyện chưa? Họ sẽ luôn lắc đầu vì họ tin rằng hành động này sẽ kích thích và cung cấp nhiều oxy cho não. Điều tương tự giống như người Hồi giáo khi cầu nguyện họ phải quỳ lạy cúi đầu. Và hãy xem những người Nhật Bản, cách họ cúi đầu và người Nhật Bản cũng có rất nhiều người thông minh, họ thích ăn sushi (thịt cá tươi). Liệu đây có phải là sự trùng hợp?

Trung tâm thương mại của người Do Thái tập trung ở thành phố New York, và chỉ phục vụ cho người Do Thái. Nếu ai đó trong cộng đồng Do Thái có ý tưởng hay có thể sinh lời, hội đồng người DT sẽ cung cấp khoản vay không lãi suất và đảm bảo việc kinh doanh này phải phát triển. Vì lý do này, Starbuck, Dell, Coca-cola, DKNY, Oracle, Levis, Dunkin Donut, các bộ phim Hollywood và hàng trăm hoạt động kinh doanh khác đều nằm dưới sự tài trợ của cộng đồng Do Thái. Sinh viên Do Thái tốt nghiệp từ khoa y dược ở New York được khuyến khích đăng ký với hội đồng này và được phép hành nghề tư với khoản vay không lãi suất này.

Hút thuốc sẽ khiến bộ não bị thoái hóa. Trong chuyến thăm của tôi đến Singapore năm 2005, điều khiến tôi ngạc nhiên là những người hút thuốc bị coi như đồ bỏ đi và giá một bao thuốc là khoảng 7 USD. Cũng giống như ở Israel, việc hút thuốc là cấm kỵ và Singapore đã hình thành cách quản lý giống như ở Israel. Đây cũng là lý do vì sao hầu hết các trường ĐH của Singapore đều thuộc đẳng cấp cao, dù Singapore chỉ nhỏ bằng Mahattan. Hãy nhìn sang Indonesia, đâu đâu mọi người cũng hút thuốc và giá một bao thuốc chỉ rẻ bèo khoảng 70 xu USD. Và bạn có thể đếm được số trường ĐH của họ, những gì họ sản xuất, những gì họ có thể tự hào, công nghệ ư? Họ còn chẳng thể nói được thứ ngôn ngữ nào ngoài ngôn ngữ của mình, vì sao họ khó có thể sử dụng Tiếng Anh thành thạo? Liệu đây có phải là do việc hút thuốc? Bạn hãy tự suy nghĩ nhé.

Trong bài nay tôi không động chạm đến vấn đề tôn giáo hay chủng tộc. Đó là vì sao người Do Thái khá kiêu ngạo, và vì sao họ luôn bị săn đuổi từ thời Paraoh cho đến Hitler. Đối với tôi đó là vấn đề về chính trị và sự tồn vong. Điểm cuối cùng trong bài này là liệu chúng ta có thể tạo ra những thế hệ giống như những người Do Thái? Câu trả lời có thể ở dạng khằng định đó là chúng ta cần thay đổi thói quen ăn uống hàng ngày, cách làm cha mẹ, và tôi đoán rằng chỉ trong 3 thế hệ, việc này có thể làm được. Điều này tôi có thể quan sát được từ đứa cháu của tôi. Chỉ mới 9 tuổi cậu đã viết được bài luận 5 trang về đề tài ‘Vì sao tôi thích cà chua?’. Cầu chúc cho chúng ta được sống yên bình và thành công trong việc tạo ra những thế hệ tương lai tài giỏi cho nhân loại dù bạn thuộc bất kỳ chủng tộc nào.

Bổ sung: Theo truyền thống người Do Thái, những học giả, nhà khoa học được khuyến khích kết hôn với con gái của những thương nhân vì theo họ, con cái sinh ra sẽ là sự kết hợp của cả giáo dục hàn lâm và giáo dục thực tế. Chính sự coi trọng thương nhân và kinh doanh cũng như học vấn đã đưa họ lên vị trí hàng đầu trên thế giới và khiến cả thế giới ngả mũ cúi đầu. (khác hẳn với văn hóa 'sỹ, nông, công, thương' của VN và Châu Á). Những chính sách của Hoa Kỳ trước đây và của Obama hiện tại cũng đều chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhà tài phiệt người Do Thái."

Nếu ngườii Do Thái làm được những điều phi thường, thì người Việt Nam cũng có thể làm được.